Cần cơ chế thúc đẩy
Nhấn mạnh về tầm quan trọng của ngành năng lượng đối với sự phát triển của đất nước tại Hội thảo chiều 16/12, ông Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương cho hay, trong vòng 20 năm trở lại đây, tốc độ tăng trung bình của sản lượng điện năng tại Việt Nam đạt mức 10-12%/năm, gấp từ 1,5 – 2 lần tốc độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế.
Đặc biệt, thời gian qua, Việt Nam đã luôn quan tâm đến phát triển năng lượng quốc gia và thực hiện chủ trương năng lượng cần phải đi trước một bước để tạo nền tảng hạ tầng thiết yếu cho phát triển kinh tế – xã hội.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã xác định rõ việc thúc đẩy chuyển dịch năng lượng từ các nguồn năng lượng truyền thống sang năng lượng xanh, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo là xu hướng lớn mang tính toàn cầu với tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam để đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển nền kinh tế bền vững, bảo đảm yêu cầu chống biến đổi khí hậu.
Ông Nguyễn Đức Hiển cũng chỉ ra, mặc dù là nước đang phát triển mới chỉ bắt đầu tiến trình công nghiệp hóa trong hơn ba thập kỷ qua, Việt Nam còn nhiều dư địa để tiếp tục phát triển sản xuất và tiêu thụ các nguồn năng lượng hoá thạch truyền thống với mức độ phát thải cao.
Tuy nhiên, theo cam kết của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Hội nghị Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP26) trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu, với mục tiêu giảm phát thải ròng dần từng năm và sẽ bằng 0 vào năm 2050 đã mang đến nhiều cơ hội to lớn cho sự phát triển lĩnh vực năng lượng sạch, tái tạo, trong đó có điện gió, đặc biệt là điện gió ngoài khơi.
Tính đến 31/10/2021, Việt Nam đã có 88 dự án điện gió hoà lưới với tổng công suất đặt khoảng 4,2 GW; đối với điện gió ngoài khơi, hiện đã có 35 dự án đang nghiên cứu và triển khai với tổng công suất dự kiến lên đến 60 GW. Điều này cho thấy tiềm năng điện gió ngoài khơi của chúng ta là rất lớn, hoàn toàn đảm bảo đáp ứng nhu cầu điện năng trong tương lai.
Vẫn được coi là lĩnh vực mới mẻ ở Việt Nam
“Bên cạnh đó, cùng với năng lực và kinh nghiệm xây dựng các công trình ngoài khơi, các công trình biển và hệ thống logistics phụ trợ của ngành dầu khí hiện nay, Việt Nam có thể phát huy tốt nội lực để phát triển ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi gắn với chuỗi giá trị công nghiệp hỗ trợ và dịch vụ logistic trong những năm tới” – ông Nguyễn Đức Hiển thông tin.
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có đường bờ biển trải dài hơn 3.000 km với 28 tỉnh, thành phố ven biển, vì vậy tiềm năng phát triển năng lượng gió tại Việt Nam vô cùng lớn.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam là nước có tiềm năng năng lượng gió lớn nhất trong bốn nước của khu vực là Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam với hơn 39% tổng diện tích của Việt Nam được ước tính là có tốc độ gió trung bình hằng năm lớn hơn 6m/s ở độ cao 65 m, tương đương công suất khoảng 512 GW.
Báo cáo của Tập đoàn Điện lực Việt Nam cho biết, tính đến hết ngày 31.10.2021, Việt Nam đã có 88 dự án điện gió hòa lưới với tổng công suất đặt khoảng 4,2 GW; đối với điện gió ngoài khơi, hiện đã có 35 dự án đang nghiên cứu và triển khai với tổng công suất dự kiến lên đến 60 GW, điều này cho thấy tiềm năng điện gió ngoài khơi của chúng ta là rất lớn, hoàn toàn bảo đảm đáp ứng nhu cầu điện năng trong tương lai.
Tuy nhiên, đến nay, điện gió ngoài khơi vẫn được coi là lĩnh vực mới ở Việt Nam. Việc thể chế hóa, cụ thể hóa chỉ đạo yêu cầu “xây dựng các chính sách hỗ trợ và cơ chế đột phá cho phát triển điện gió ngoài khơi gắn với triển khai thực hiện Chiến lược biển Việt Nam” nêu tại Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị của các cấp, các ngành còn chậm.
Lộ trình triển khai rõ ràng và minh bạch, sẽ giúp thu hút các nhà đầu tư
Nhấn mạnh về tầm quan trọng của điện gió ngoài khơi với ngành năng lượng Việt Nam trong tương lai, ông Ben Backwell – Chủ tịch GWEC cho hay: “Đây là một thời điểm tuyệt vời cho ngành điện gió Việt Nam. Điện gió trên bờ đã có những bước phát triển vượt bậc trong thời gian qua, với hơn 3,98 GW công suất được bổ sung trong năm 2021. Chúng tôi cho rằng việc nhanh chóng phát triển nguồn điện tuyệt vời này là hết sức cấp thiết cho tham vọng giảm phát thải ròng của Việt Nam”.
Bên cạnh đó, ông Ben cũng nhấn mạnh về sự cấp thiết của việc xây dựng khung chính sách hoàn chỉnh cho phát triển điện gió ngoài khơi, theo đó, để đạt được mức phát thải bằng 0 vào 2050, việc huy động nguồn tài chính trong giai đoạn khởi tạo ngành điện gió ngoài khơi tại Việt Nam cần có sự chuẩn bị kĩ càng về mặt khung chính sách, bao gồm cơ chế hỗ trợ, thủ tục cấp phép, cũng như hợp đồng mua bán điện phù hợp với quy chuẩn quốc tế.
“Với cơ chế hỗ trợ phù hợp, điện gió ngoài khơi có thể nhanh chóng phát triển và cạnh tranh về giá với các nguồn điện khác. Kinh nghiệm thế giới cho thấy với việc hỗ trợ 4-5 GW đầu tiên thông qua cơ chế giá cố định sẽ đem lại những hiệu quả rõ rệt về giảm chi phí trong dài hạn, lên đến 40-60%” – Chủ tịch GWEC chỉ ra.
Cũng theo ông Ben Backwell, ngành điện gió ngoài khơi cũng đang hết sức quan tâm đến quá trình xây dựng Quy hoạch Điện VIII. Việc đưa ra quy mô công suất lắp đặt cao, cũng như lộ trình triển khai rõ ràng và minh bạch, sẽ giúp thu hút các nhà đầu tư cũng như nguồn tài chính tại Việt Nam.
Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Đặng Hoàng An, phát triển điện gió ngoài khơi tại Việt Nam là lĩnh vực còn mới mẻ. Vì vậy, còn nhiều vấn đề cần được đặt ra và giải quyết bao gồm việc xây dựng các cơ chế, chính sách, xây dựng cơ sở hạ tầng lưới điện, nâng cao năng lực thi công, xây lắp và phát triển chuỗi cung ứng nội địa. Mục tiêu trên hết vẫn là đáp ứng đủ điện cho nền kinh tế và người dân Việt Nam với chi phí hợp lý.
Theo baodansinh.vn